Menu

Nhà giáo ưu tú Phan Thanh

Nhà giáo ưu tú Phan Thanh

Nhà giáo ưu tú Phan Thanh

Nhà giáo ưu tú Phan Thanh

Đọc tại lễ truy điệu nhà giáo ưu tú Phan Thanh

Kính thư: các cụ, các ông, các bà, các anh chị em cùng các cháu

Hôm nay, chúng ta có mặt tại đây để đau sót tiễn đưa Nhà giáo Phan Thanh nguyên Nghiên cứu viên cấp cao Viện khoa học giáo dục Việt Nam, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Giáo dục Dân tộc viện khoa học giáo dục Việt Nam, nguyên Phó ban Giáo dục Miền núi viện khoa học giáo dục, nguyên Cán bộ nghiên cứu văn tự tiếng dân tộc vụ giáo dục miền núi bộ giáo dục, nguyên cán bộ ty giáo dục Hà Giang, nguyên cán bộ văn phòng Tỉnh ủy Hà Giang về nơi an nghỉ cuối cùng.

Nhà giao Phan Thanh, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1932 trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng và văn hóa tại xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.

Thân phụ ông là cụ Phan Triều Thần (1909 – 1971), một cán bộ lão thành cách mạng, người Đảng viên đầu tiên của xã Quyết Tiến và đã từng giữ trọng trách Chủ tịch Mặt trận huyện Hoàng Su Phì - Hà Giang từ 1951 đến 1963.

Năm 1945, cách mạng Tháng Tám thành công, chàng thanh niên Phan Thanh sớm trở thành một liên lạc viên tích cực trên địa bàn huyện và tỉnh vì đã có thể cùng một lúc sử dụng 6 thứ tiếng: Bố Y, Kinh, Mèo, Giao, Tày, Nùng và 2 phương ngữ của tiếng Trung là: Quan Hỏa và Quan Thoại. Ông theo cách mạng lên chiến khu Việt Bắc, công tác trong phòng Quốc dân Miền núi và có thời gian công tác cùng các nhân vật tên tuổi trong lịch sử cách mạng Việt Nam như: Nguyễn Khang, Nguyễn Công Thành, Hoàng Bắc Dũng … Từ năm 1949 – 1951 ông phụ trách phòng mật mã của Tỉnh ủy Hà Giang.

Sau khi học xong lớp Sư phạm Cấp 1 tại khu học xá Quế Lâm – Trung Quốc, ông về công tác tại Ty Giáo dục Hà Giang năm 1955.

Từ tháng 10/1955 ông được điều động về công tác tại phòng Chữ Dân Tộc – Bộ Giáo dục, phụ trách việc xây dựng chữ Mèo trong tổ chữ Mèo với 2 thành viên trụ cột: Phan Thanh và Nguyễn Văn Chỉnh.

Trải qua 4 năm làm việc miệt mài, tỷ mỉ và cẩn trọng tới năm 1959, việc khởi thảo và thực nghiệm phương án chữ Mèo đã hoàn thành và được Quốc hội thông qua năm 1960 và tới ngày 27/11/1961, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ban hành chữ Mèo Việt Nam với công sức đóng góp lớn lao của 2 vị “Khai Ngữ Công Thần” là Phan Thanh và Nguyễn Văn Chỉnh.

Từ sau năm 1961 cho tới năm về hưu 1996, Nhà giáo Phan Thanh luôn trung thành và tâm huyết với niềm đam mê duy nhất là duy trì và phát triển chữ Mông cũng như có nhiều đóng góp quan trọng khác cho các dự án, đề tài có liên quan đến những ngôn ngữ Dân tộc mà ông từng am hiểu. Nhà giáo Phan Thanh là đồng biên soạn một số từ điển quan trọng như: Từ điển Mông – Việt, Từ điển Việt – Mông, đồng biên soạn Chương trình và Sách giáo khoa chương trình Mèo Việt xen kẽ, Chương trình dạy tiếng Mông cho học sinh vùng đồng bào Mông. Đã nhiều năm ông chủ trì tổ chức và trực tiếp giảng dạy chữ Mông, góp phần đào tạo nhiều thế hệ học sinh người Mông, phát triển số người học chữ Mông ở hầu hết các vùng đồng bào có người Mông sinh sống. Trong đó, có nhiều người đã trở thành cán bộ cốt cán, nhiều cán bộ người Mông ở cấp Tỉnh và cấp Trung ương, một số người đã trở thành giáo viên dạy tiếng Mông.

Những năm đã nghỉ hưu, nhà giáo Phan Thanh vẫn làm việc không mệt mỏi, ông được nhiều Tỉnh Miền núi phía Bắc, một số đơn vị Quân đội và Công an mời tham gia làm các chương trình, và dự án về tiếng Dân tộc và dạy tiếng Mông cho các Cán bộ chiến sỹ một số đơn vị Quân đội và Công an và đã đào tạo nhiều Cán bộ chiến sỹ trở thành giáo viên dạy tiếng Mông ở đơn vị mình.

Nhà giáo Phan Thanh có khả năng sử dụng đến 13 thứ tiếng trong đó có tiếng Bắc Kinh và 3 phương ngữ tiếng Trung cùng 9 ngôn ngữ trên lãnh thổ Việt Nam. Cho tới nay, Nhà giáo Phan Thanh là trí thức người Bố Y duy nhất đã công tác tại Hà Nội trên 60 năm nhưng tình cảm của ông, tâm hồn của ông luôn hướng về các miền Dân tộc và Miền núi, đặc biệt là vùng dân tộc Mông.

Trong những năm kháng chiến đầy gian khổ, đường xá đi lại khó khăn, không quản đèo cao suối sâu, có khi phải đi bộ hàng trăm cây số, Nhà giáo Phan Thanh cùng đồng sự của mình đã từng in dấu chân khắp các nẻo đường vùng núi vùng cao vùng sâu trên cả nước. Ông am hiểu nhiều ngôn ngữ Dân tộc trên cả 3 bộ phận tổ thành ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Đặc biệt, ông có am hiểu và yêu cầu rất cao về rèn luyện ngữ âm cả về lý thuyết và thực hành. Đã có một số nhà ngôn ngữ như Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Văn Hiệu đã tìm đến ông xin được học tiếng Mông phục vụ cho luận án Tiến sỹ của mình. Có một số học giả, Tiến sỹ, Giáo sư những người am hiểu ngôn ngữ đã nói rằng: Nhà giáo Phan Thanh xứng đáng được coi là vật báu Quốc gia. Thật tiếc thay, nhiều người trẻ bây giờ chẳng có mấy ai chịu học những ngôn ngữ mà Nhà giáo Phan Thanh sẵn sàng chỉ dạy và đáng tiếc hơn là những hiểu biết, kinh nghiệm quý báu của ông không được sưu tầm biên tập thành các tài liệu ngôn ngữ truyền lại cho thế hệ sau.

Về đời tư, Nhà giáo Phan Thanh cũng gặp nhiều khó khăn trắc trở, sau hơn 20 năm trải qua 2 lần đò mà chưa tới bến trọn vẹn. Bến tình duyên của ông thực sự dừng lại khi ông gặp bà Trần Thị Phất, cô gái Ga Gôi, Vụ Bản Nam Định, người sống cùng ông chia ngọt sẻ bùi từ năm 1979 đến nay. Niềm an ủi lớn nhất của ông là đời cũng chẳng phụ người. Hiện ông đã sinh thành được 4 người con, 2 trai 2 gái. Các cháu đều đã phương trưởng, làm ăn thành đạt, giữ tròn đạo hiếu với cha mẹ và hòa thuận cùng anh chị em. Ông bà đã có 9 cháu nội ngoại, rất ngoan ngoãn và đáng yêu. Thực là ông đã được yên vui tuổi già, con cháu quây quần như quế hòe đầy sân.

Kính thưa các cụ, các ông các bà, thưa các anh chị cùng các cháu.

Trong giờ phút ly biệt này, chúng ta những người thân, những cộng sự. những người đã có những tháng năm trung sống cùng Nhà giáo Phan Thanh không thể không nhớ tới hình ảnh về một Nhà giáo, một người phụ trách, một người anh, một người bạn, người đồng chí thân thương, nhiệt tình hăng hái miệng nói tay làm có tác phong làm việc cẩn trọng có lối sống nghiêm túc và giản dị.

Là người có ý thức quan tâm đến mọi người có lúc Nhà giáo Phan Thanh vừa là thầy giáo vừa là thầy lang vừa là người thợ thủ công vô tư giúp đỡ mọi người không quản thiệt hơn. Nét nổi bật ở ông là: một người sống hiền hòa, nói năng nhẹ nhàng thủ thỉ, đúng mực. Hình như suốt cả cuộc đời ông chẳng nói to chẳng nặng lời với ai bao giờ.

Trong gia đình, Nhà giáo Phan Thanh là người con, người anh hiếu lễ, người bác hiền từ có tình thương và trách nhiệm với các cháu. Đối với vợ con, ông là người tận tủy thủy chung, người cha người ông hiền từ đức độ, hết lòng tôn trọng và thương yêu con cháu. Ông thường tôn trọng ý tưởng của các con và tạo cơ hội cho chúng sống tự lập. Đối với Khu dân cư, ông là một công dân gương mẫu, nhiệt tình đóng góp với phong trào chung.

Ảnh hưởng từ thân phụ, một người am hiểu Nho học, Nhà giáo Phan Thanh cũng là người có nhiều ảnh hưởng của triết học phương Đông và thuộc nhiều thành ngữ tục ngữ của người Mông và người Hán. Ông rất tâm đắc với câu thành ngữ: “Nhật nhật đãi nhân, bất bần / Dạ dạ thâu nhân, bất phú” (Ngày ngày rộng lòng với người, thì không bao giờ nghèo / Đêm đêm lấy trộm của người, thì không bao giờ giàu có). Phải chăng đây là quan niệm sống của ông? Điều này giải thích việc ông có lối sống bình dị, đơn giản đến thế dù đã là một nghiên cứu viên cao cấp của Bộ Giáo dục. Lặng lẽ và khiêm nhường sống trong căn hộ trên 40m2, mặc kệ ngoài kia thiên hạ đua nhau cửa cao nhà rộng, xe hơi đời mới. Những năm tháng tuổi già, ông tìm về đọc nhiều triết học phương Đông, tĩnh tâm suy nghĩ về những năm tháng thăng trầm của cuộc đời. Phải chăng đây là cái chất Phan Thanh, cốt cách Phan Thanh mà nhiều người chúng ta ngưỡng mộ.

Do những đóng góp đối với sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp giáo dục, Nhà giáo Phan Thanh đã được Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo dục tôn vinh và trao nhiều phần thưởng cao quý:

-         Danh hiệu Nhà Giáo Ưu Tú

-         Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng

-         Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất

-         Huân chương Vì sự nghiệp Giáo dục

-         Huy chương Vì sự phát triển Dân tộc và Miền núi

-         Và nhiều bằng khen giấy khen khác ..

Kính thưa các cụ, các ông các bà, các anh chị cùng các cháu.

Nhà Giáo Phan Thanh mất đi là một tổn thất lớn lao đối với gia đình, gia tộc họ Phan và quê hương Quản Bạ thân yêu. Ông ra đi để lại một khoảng trống không thể bù đắp được, bác Phất – người vợ hiền mất đi một người bạn đời rất mực yêu thương, các con cháu mất đi một người cha, người ông vô vàn yêu kính, anh em bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp mất đi một người anh, người bạn rất mực chân thành, một người phụ trách mẫu mực và liêm khiết. Bà con lối phố mất đi một người bạn gương mẫu và giàu lòng vị tha.

Nhà giáo Phan Thanh kính mến.

Những đóng góp lớn lao của ông, tinh thần phấn đấu đầy nhiệt huyết của ông đối với sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp giáo dục, nhân cách đáng quý của ông đã để lại trong chúng tôi lòng kính trọng và tình cảm sâu sắc. Vẫn biết, bất kỳ ai trong cõi người rồi cũng phải có lúc phải về với Tổ tiên, vẫn biết rằng tinh thần còn mãi với tạo hóa nhưng sự ra đi của Nhà giáo Phan Thanh lại là mãi mãi khiến mỗi người thân mỗi chúng ta không nén nổi nỗi tiếc thương.

Thưa bác Phất cùng các cháu, chúng tôi vô cùng đau xót gửi tới bác và gia đình lời chia buồn sâu sắc nhất mong bác và các cháu nén nỗi đau thương để tiếp tục thực hiện những ý nguyện mà lúc sinh thời Nhà giáo Phan Thanh hằng mong muốn để ông được thỏa nguyện ở cõi cửu tuyền.

Nhà giáo Phan Thanh kính mến, xin gửi tới ông lòng tiếc thương vô hạn của chúng tôi cầu chúc cho hương linh của ông được siêu sinh tịnh độ chốn vĩnh hằng.

Xin toàn thể quý vị dành một phút mặc niệm để tiễn biệt nhà giáo Phan Thanh kính mến của chúng ta.

Ngày 28 tháng 09 năm 2020.